<May 2024>
SunMonTueWedThuFriSat
2829301234
567891011
12131415161718
19202122232425
2627282930311
2345678
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Vu Lan Nghĩ Về Đấng Sinh Thành
Tác giả: Thượng tọa Thích Tín Nghĩa

VU LAN NGHĨ VỀ

 

ĐẤNG SANH THÀNH

 

Thượng tọa Thích Tín Nghĩa

 


      Trong nếp sống Tình cảm đầy Đạo đức của con người Đông phướng, đặc biệt là Việt Nam và Trung Hoa; nếu nhắc nhở đến một thứ Ân sâu, Nghĩa nặng, cao cả, bao la, thì đó là Ân Nghĩa Sanh Thành. Ca dao, tục ngữ thường nhắc nhở :

 

      Đã làm người ở trong trới đất,

      Ai là không Cha Mẹ sanh thành.

      Có Cha Mẹ mới có mình,

      Ở sao trọn Hiếu, trọn Tình làm con.

 

      Trong một xã hội trãi qua quá nhiều tang tọc, đau thương như Việt Nam chúng ta, khi bao nhiêu đứa con yêu tổ quốc ra đi vì hoàn cảnh, xa lìa đấng Sanh thành, thì thấy sự mất mác và trống vắng trong tâm khảm của chúng ta vô cùng to lớn như trời đất, biển cả. Đó là một thứ Ân đức đầy tha thiết và đậm đà làm sao. Bởi vì :      

       Công Cha như núi Thái sơn,

      Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

      Một lòng thờ Mẹ, kính Cha,

      Cho tròn chữ Hiếu, mới là đạo con.

 

      Và cứ thế, tình yêu thương của Cha mẹ cứ lớn dần lên mãi khi Người (cha me) đã chịu trăm đắng nghìn cay để tạo ra chúng ta và lo cho chúng ta nên người. Ân đức ấy cứ tỏa ra và tỏa ra mãi cho đến khi Người buông xả, nhắm mắt vĩnh viễn để xa hẵn chúng ta.

 

      Tình sâu nghĩa nặng dường ấy, thử hỏi: Chúng ta đã báo đáp được những gì ?   Hay chỉ là:những lời khóc mướn thương vay, chúng ta nuôi Cha mẹ tính ngày tính tháng ?
      Hay chỉ là :  Thuộc vào những phường vô ơn, bạc nghĩa? Những kẻ chỉ biết đam mê vào mồi vinh hoa phú quý, bã lợi danh, để đánh mất hết nhân tính của chính chúng ta ?
      Và, cho dù lòng người có điên đảo, đảo điên đến thế nào chăng nữa, Ân đức Sanh thành vẫn một mực khoang dung độ lượng như hải hà. Ân đức của đấng sanh thành mà ngàn đời ấy, chỉ biết đem hết sức lực, và máu huyết của mình để nuôi dưỡng đàn con mà không một lời than thở và không bao giờ nghĩ đến chuyện đáp đền.
      Vì vậy, thân phận của chúng ta hôm nay, dù ở đâu trên quả địa cầu nầy, đặc biệt là con dân nước Việt xa xứ, tạm dung nơi xứ lạ quê người, thì Ân sâu Nghĩa nặng ấy đã trở thành hai phương trời cách biệt; đó là niềm đau xót tận tâm can của chúng ta. Trong nỗi đảo điên của vận nước, trong lối điêu ngoa của thế thái nhân tình, thì hình ảnh sanh thành dưỡng dục lại hiện về như đôi bàn tay hòa ái, như nụ cười đôn hậu, khoang dung.

 

      Ôi ! Cao cả làm sao !  Cả một bầu trời thánh thei65n đang che chở cho chúng ta. Dù cho non nước đổi dời, dù biển cạn núi mòn, nhưng, Ân nghĩa sanh thành vẫn muôn đời bất diệt. Dù xuất gia hay tại gia cũng đều là Phật tử cả. Bởi vì Phật tử tức là:

 

       -.  Tùng Phật khẩu sanh, tùng Pháp hóa sanh, đắc pháp phần Phật, cố danh Phật tử đúng mức, thì phải là người con chí hiếu rồi: có nghĩa là không thể và không bao giờ quên hay làm ngơ đi cái ân thiêng liêng mà cha mẹ, ông bà tổ tiên đã tạo dựng cho chúng ta thành thân, nên người.

 

      Trong kinh Vu Lan, đức Phật răn dạy cho hàng đệ tử của ngài phải: . . . "đền đáp ân đức sanh thành dưỡng dục . . ."., Phật pháp cảnh giác rằng thân người khó được mà dễ mất. Khó được mà được là nhờ có Cha mẹ sanh ta ra tức là nhờ có ơn sanh thành, dễ mất là còn là nhờ có Cha mẹ nuôi nấng khôn lớn tức là nhờ có ơn dưỡng dục.

 

      Cho nên, Phật tử là con của Phật thì phải biết và vâng lời theo đoạn kinh được rút ra trong Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 601 có đoạn nói về ơn Cha, nghĩa Mẹ như sau :

 

       -. "Có hai việc phải làm cho hàng phàm phu được đại công đức thành đại quả báo, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, đó là phụng sự cha mẹ được đại công đức, thành đại quả báo khi cúng dường vị Bồ Tát chỉ còn một đời nữa là làm Phật. Vì vậy, các thầy Tỳ kheo, hãy luôn luôn nhớ và hiếu thuận với cha mẹ."
      "Các thầy Tỳ kheo, có hai người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là Cha mẹ. Nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ đến ngàn vạn năm, cung phụng đủ cả đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và thuốc thang, để cha mẹ tiểu tiện đại tiện trên đôi vai mình đi nữa, cũng chưa trả hết công ơn cha mẹ. Các thầy phải hiểu rằng ơn cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, không để lỡ cơ hội, làm cho ta thấy được nhật nguyệt, vì thế mà biết ơn ấy rất khó trả. Do đó, các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không để lỡ mất cơ hội.".

 

      Đoạn kinh nầy, nhân mùa an cư kết hạ, đức Phật trực tiếp răn dạy cho hàng xuất gia. Bởi vì, đức Phật nhận thấy ơn cha, nghĩa mẹ sâu dày như thế, người xuất gia không phải vì nại cớ chỉ lo làm lành lánh dữ, hướng dẫn tu niệm vẫn chưa đủ. Một khi cha mẹ cần đến mình, nếu mình không đáp ứng thì đừng xuất gia còn hơn. Dưới đây là một đoạn nhỏ rút ra từ kinh Trung A Hàm, Đại tập, tập một, trang 500.
      Ngài Trí Húc cũng dẫn giải theo lời dạy của Phật được rút ra từ trong Tục tạng, tập 35, trang 154b với ý như sau :... "Có hai vị Phật sống ở trong nhà các người, đó là Cha và Mẹ ...".

 

      Bởi vì theo trong Tục tạng, tập 59, trang 213a, đứng về Giới luật, đức Pha65t dạy : ... "Bởi vì ngay Giới luật Thanh văn đi nữa, nếu thấy cha mẹ bị bắt, không cố chuộc ra, là phạm đệ thất tụ ...".

 

      Cho nên, là đệ tử Phật dù xuất gia hay tại gia đều phải phụng dưỡng cha mẹ.
Hàng tại gia thì lo làm lụng, phụng dưỡng cha mẹ vật chất có được theo khả năng của mình. Song song với sự phụng dưỡng cha mẹ bằng cách hướng dẫn song thân tu niệm theo Phật pháp mà còn phải phụng dưỡng cha mẹ theo như kinh Vu Lan Bồn, trong Tạp A hàm, ở Đại tập, tập hai, trang 22 có đoạn hướng dẫn như sau:
      
..." ...Như pháp khất thực mà phụng dưỡng cha mẹ, thì phước đức rất lớn ...".
Ngày đức Phật còn tại thế, chính ngài đã trực tiếp dạy cho vua Ba Tư Nặc về hiếu hãnh của ngài. Ngài nhấn mạnh cho nhà vua biết qua lời kinh Tăng Nhất A hàm, trong Đại tập, tập hai, trang 637 rằng:

 

      Chính ngài cũng là thành phần của loài người, cha là Chân Tịnh, mẹ là Ma Gia.. Ân đức của cha mẹ vô cùng trọng yếu, nên khi ngài trở về hoàng cung vấn an phụ vương cũng như dẫn dắt phụ vương và hoàng thân quốc thích tại Ca Tỳ La Vệ theo chánh pháp. Khi ngài về gần đến kinh đô, ngài nghĩ: Ân cha mẹ rất nặng, tình dưỡng dục cao dày, ngài không thể để cho phụ hoàng nghinh tiếp; gần giáp mặt mà ngài phải phi thân lên bảy bước. Theo ý ngài Tông Mật, là đức Phật không để cho phụ vương lạy trực tiếp với đức Phật

 

      Tương truyền rằng: Khi đức Phật và Tăng đoàn theo đức Phật về thăm phụ vương và hoàng cung, đức Phật cho Tănng đoàn đi trước. Phái đoàn vừa vào hoàng cung thì tất cả quần thần đều ra nghinh đón và đảnh lễ chư Tăng trong đó có phụ vương. Chư Tăng dừng bước trước đền rồng, phụ hoàng ngơ ngác nhìn quanh quất chẳng thấy con mình (đức Phật) đâu, Tịnh Phạn Vương đang ònn phân vân, tức thì đức Phậtt đã dùng thần thông đứng sau lưng phụ hoàng, với hai tay choàng chặt thân phụ hoàng không cho vua cha chấp tay đưa lên vái đức Phật. Với ý nầy, chúng ta thấy ngay đức Phật thể hiện trọn vẹn một người con chí hiếu đối với phụ thân đúng mức.

 

      Đức Phật nhận ra công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ rất cao thâm, nên tring kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 749 có nói: Khi đức Phật nhập Niết bàn, ngài vẫn đề cao Phụ Mẫu Lực, mà không xử dụng Thần Thông Lực, và Trí Huệ Lực.

 

      Gương hiếu hạnh của ngài đã thể hiện qua hình ảnh ở trong kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại tập, tập hai, trang 822 và 823, có đoạn nói như sau :

 

      ..."...Khi ngài nghiên vai gánh quan tài kế mẫu là bà Đại Ái Nhạo Tỳ Kheo, lúc bà nhập diệt. Chính đức Phật đã từ chối sự làm thay của chư thiên. Ngài dạy: Cha mẹ sanh thành, làm con lợi ích rất nhiều, ân nuôi dưỡng không thể báo đáp. Ngài nghiên vai gánh một góc, ba góc kia ngài bảo các em là tôn giả Nan Đà, tôn giả A Nan và tôn giả La Vân cùng khiêng đến tận chỗ hỏa táng. Chính ngài đích thân hỏa táng kế mẫu...".

 

      Cùng với việc trong Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm ở trong Đại tập, tập hai, trang 703 và trang 704, cùng với trong kinh Địa Tạng, đều có ghi đức Phật lên cung trời Đao Lợi để thuyết pháp cho thân mẫu nghe.
Đức Phật dạy: Dù xuất gia hay tại gia, ai có hiếu tức là đã giữ giới. Ngài thường day:Hiếu là Giới. Vì Lục đạo chúng sanh là Cha Mẹ. Chính điều nầy đã chỉ dẫn cho chúng ta thấy: Hiếu Hạnh là Giới Luật vậy.

 

      Hàng xuất gia, đức Phật dạy kỷ từng ly từng tý như vậy.

 

      Hàng tại gia đức Phật phải biết phụng dưỡng cha mẹ ngoài vấn đề vật chất, khi hai đấng sanh thành còn tại thế. Khi cha mẹ và ông bà tổ tiên đã khuất bóng cùng với lục thân quyến thuộc thì phải làm sao, một khi mùa Vu lan Bào hiếu lại trở về ?
Trước tiên là sắm lễ vật the khả năng và hạnh nguyện để dâng cúng Thập phương chúng Tăng nhân mùa Tự tứ. Trước là nhờ ân đức của Đại chúng sau ba tháng an cư kết hạ tịnh tu để chú nguyện. Nhờ oai lực của chư Tăng mà sự cúng dường của chúng ta có đượcc phước báu vô cùng. Trong kinh Vu Lan Bồn có dạy rằng :
      ..."...Ai được hiến cúng liệt vị Thánh Tăng tự tứ như vậy, thì cả cha mẹ cùng với bà con, được tiêu trừ các thống khổ trong ba đường dữ, tức thời giải thoát, cơm áo tự nhiên. Cha mẹ hiện tại thì được hạnh phúc, sống lâu trăm tuổi, cha mẹ bảy đời thì được sanh lên chư thiên, tự tại hóa sanh vào trong thiên giới, phước lạc vô cùng...".

 

      Chúng ta cúng Phật, chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tai cũng như nhiều đời cũng được phước lạc vô biên.

 

      Tóm lại, Phật tử là người chí hiếu. Như trên đã nói: Cái đức Từ Hiếu nghĩa là Từ và Hiếu. Phật giáo quan niệm tất cả chúng sanh trong lục đạo thay phiên nhau làm cha, làm mẹ, làm anh, làm em và làm vợ, làm chồng, làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Điều nầy trong kinh Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát có đoạn nói :  ..."...chuyển hồi lục thú, sanh sanh phụ mẫu, thế thế huynh đệ..."

 

      Nghĩa là: Quanh quẩn lục thú, kiếp kiếp làm cha mẹ lẫn nhau, đời đời làm anh em quyến thuộc...

 

      Như vậy, chắc chắn rằng theo nghiệp dẫn thì có người lên, kẻ xuống; do đó, chúng ta phải cầu nguyện. Không phải chỉ có cầu nguyện trong mùa Vua Lan, mà phải thường cầu nguyện cho đều. Không những thế, chính mình phải thực hành theo lời Phật dạy để mà tu tập cho bản thân. Bản thân có trong sạch thì lời cầu nguyện cảm ứng có phần linh diệu hơnd9u7o75cMa85c dầu trong kinh chỉ dạy là thoát nạn đau khổ trong ngạ quỹ là do vì hình ảnh của mẹ ngài Mục Kiền Liên đã làm Ngạ quỹ. Thật ra, cha mẹ, thân bằng, lục thân quyến thuộc của chúng ta không chịu tu tập theo chánh pháp thì sẽ bị đọa khắp cả trong ba đường dữ chứ không riêng gì cảnh giới ngạ quỹ.

 

      Trong kinh Tăng Nhất A hàm, Đại tập, tập hai, trang 6000, đức Phật đã dạy :
      ..."...Ai biết trả ơn thì người ấy đáng kính. Người ấy ơn nhỏ còn không quên huống chi ơn lớn. Người ấy dẫu ở cách ta ngàn dặm hay trăm ngàn dặm mà vẫn không xa ta. Vì lẽ, các thầy Tỳ Kheo, ta luôn luôn ca tụng người biết trả ơn. Kẻ nào không biết trả ơn thì ơn lớn cũng quên, huông chi ơn nhỏ. Kẻ ấy sẽ không gần ta, ta không gần kẻ ấy. Kẻ ấy dù mặc pháp y và ở ngay bên trái hay bên phải của ta đi nữa, cũng vẫn xa ta...".

 

      Những lời dạy thống thiết của đức Phật đối với hàng đệ tử của ngài, cho dù cha mẹ không nghèo khổ, chúng ta cũng phải có bổn phận lo nghĩ đến ân đức sanh thành, huống nữa cha mẹ đang cơn nghèo đói. Hàng Phật tử phải đúng pháp mà cúng dường và phụng dưỡng. Người cúng dường có phước báu mà người thọ vật thực cũng được an lạc.

 

      Người học Phật muốn có một cuộc sống mà phẩm hạnh được cao khiết tức là phải biết đền trả bốn ân nặng (tứ trọng ân). Đó là: Ân Tam Bảo, ân Cha mẹ, ân Quốc gia Xã hội, và ân Chúng sanh. Hàng Phật tử nói riêng và con người nói chung mà không biết, không nghĩ tới bốn ân nầy thì không còn là Phật tử, không còn là con người nữa; cũng từ đó, cộng đồng xã hội cũng khó phát triển được trong sự tin yêu và hỗ trợ cho nhau. Là con người sống trong cộng đồng xã hội mà vong ân, bội nghĩa thì chẳng khác nào như là một loài thú sống nơi hoang dã, cắn xé nhau, lừa đảo với nhau thì cũng giống với loài kiến ăn cá, cá ăn kiến; nghĩa là chỉ chờ cơ hội sa chân thất thế là làm hại lẫn nhau, chẳng lợi lạc gì cho ai. Đối với hạng người ấy, người đời có thơ rằng:

 

      Những người bất hiếu tử,

      Nhung nhúc sống bằng thừa,

      Không nghĩ ơn cha mẹ,

      Khác nào trùng, cây khô...

 

      Để tránh sự gieo rắc khổ hãi cho nhai, con người phải có một tâm niệm biết ơn, nhất là đệ tử Phật. Làm sao chúng ta xem người bên cạnh mình là một người bạn tốt, hiền lành, đôn hậu được trong khi họ lại là kẻ bất hiếu, bất mục với hai đấng sanh thành của họ. Cha mẹ đã không thương tưởng, không biết chăm sóc, cung phụng thì còn nói gì về vấn đề phụng sự quốc gia dân tộc; phục vụ đồng bào xứ xở. Cái ân lớn nhất và gần nhất là cha mẹ mà đã không đền đáp thì trong xã hội sẽ không bao giờ có chuyện hy sinh cho người, hy sinh cho đại cuộc, hy sinh cho từ thiện với tinh thần vô vị lợi.

 

      Muốn yêu ai, muốn thương nước nhớ nòi, muốn nói đến cội nguồn, muốn nói đến tình đồng bào, nghĩa dân tộc thì không ngoài mấy chữ hiếu đễ, hiếu hạnh,... phải thuộc lòng. Thiếu những cái đó, bản thân không ra gì, gia đình sẽ bất ổn, đất nước sẽ đau thương, khổ lụy, nhân loại mất đi hạnh phúc của cuộc sống.
      Xã hội được an bình là nhờ con người biết nhớ ơn, từ đó bông hoa ái quốc sẽ nở rộ, hoa từ bi sẽ ngát hương; thế giới hòa bình, hùng mạnh là nhờ ở lòng biết thương yêu nhau, biết nhớ ơn nhau chứ không phải là nhờ sức mạnh vũ khí tối tân. Cho dù một dân tộc nào đó có yếu kém về canh tân khoa học đi chăng nữa, nhưng biết giự gìn nếp sống đạo đức, thuần lương thì quốc gia ấy vẫn hòa bình và an lạc như thường.

 

      Kẻ nào không biết ơn đều thuộc loại bất hiếu. Đã bất hiếu rồi thì bất trung, bất nghĩa, bất nhơn, vô liêm sỉ và suốt đời sẽ đem lại những nỗi bất hạnh cho cha mẹ, cho thân bằng quyến thuộc và cho cà nhân loại.

 

      Để kết thúc bài nầy, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa là: Ngày Vu lan là ngày Báo Hiếu, là ngày đề cao :  Hiếu là Giới. Ngài Trí Húc đã dẫn giải rõ ràng theo kinh Ma Ý, cho thấy đức Phật dạy, được rút ra từ Tục tạng, tập 35, trang 252b như sau:

 

      -. "Giữ Giới chính là để hiếu thuận báo ơn cha me.".

 

      Ngay trong Bồ Tát Giới kinh cũng đã dạy rõ :

 

      -. "Quả báo của tội phá giợi nặng nhất, đến nỗi trong hai hay ba kiếp không còn nghe được danh từ Cha Mẹ hay Tam Bảo.".

 

      Con người bất hiếu thì luôn luôn ở trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỹ và súc sanh. Chúng ta cha mẹ, chúng ta phải làm gì khi song thân còn tại thế hay đã qua đời. Hiếu thuận, biết ơn cha mẹ tức là giữ giới. Đã giữ giới tức là hiếu sanh chứ không hiếu sát. Đó là đệ tử Phật.

 


     
      Đức Phật dạy :

 

      -. "Gặp thời không có Phật, khéo phụng thờ Cha mẹ tức là đã thờ Phật vậy.".

 

1Hiện Tình Phật Giáo Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
1Chú Đại Bi Lược Giải . Thích Tín Nghĩa
1Cốt Tủy Nghi Lễ Phật Giáo . Thích Tín Nghĩa
1Từ Đàm Quốc Nội Quốc Ngoại . Thích Tín Nghĩa
1Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế . Thích Tín Nghĩa
1Nghi Thức Chẩn Tế Cô Hồn . Thích Tín Nghĩa
1Hiền Lương Chí Lược Tân Biên . Thích Tín Nghĩa
1Thiền Môn Văn Điệp (Hán Văn) . Thích Tín Nghĩa
1Kỷ Yếu Khánh Thành và Đại Hội. Tín Nghĩa
1Kỷ Yếu Tổng Vụ Cư Sĩ. Tín Nghĩa
1Tưởng Niệm Ôn Mật Hiển. Tín Nghĩa
1Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập. Thích Tín Nghĩa
1Nghi Thức Tụng Niệm Đặc Biệt . Thích Tín Nghĩa
1Nghi Thức Phổ Thông. Tín Nghĩa
1Nhơn quả. Thích Tín Nghĩa
1Tổ Liễu Quán. Thích Tín Nghĩa
1Ba ngày rằm. Thích Tín Nghĩa
1Tách trà còn nóng. Thích Tín Nghĩa
1Đạt Ma Huyền Trang. Thích Tín Nghĩa
1Pháp khí và Pháp phục. Thích Tín Nghĩa
1Những Bước Chân Đi Qua. Thích Tín Nghĩa
1Vulan nghĩ về Đấng Sinh Thành Thích Tín Nghĩa
1Tình pháp lữ giữa tôi và HT Thiện Trì. Thích Tín Nghĩa
1Những kỷ niệm với HT Thích Đức Niệm. Thích Tín Nghĩa
145 Ngày Du Hóa Âu Châu. Thích Tín Nghĩa
1Ảnh Hưởng Thiền với Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
1Những Dấu Mốc Trong Hơn Nửa Thế Kỷ Qua. Thích Tín Nghĩa
1Mấy Mùa AN CƯ . Thích Tín Nghĩa
1Một Kỷ Niệm Khó Quên Với, Ôn Huyền Quang . Hậu học, Thích Tín Nghĩa
1 Ôn Già Lam . Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
1Hình ảnh, Thích Tín Nghĩa
1An Cư là Một Tuyệt Tác của Tăng Già Hòa Hợp và Thanh Tịnh Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
1 Chiếc Xe Đạp - Điều ngự tử Tín Nghĩa
1TU - Điều ngự tử Tín Nghĩa
1 Kỷ Yếu Cư Sĩ và Sự Thật Vùng Đất La Vang  Điều ngự tử  Thích Tín Nghĩa
1 Những Vần Thơ Xuân    Điều ngự tử  Thích Tín Nghĩa
1Những Tác Phẩm    Điều ngự tử  Thích Tín Nghĩa
1Nguồn Gốc Về Nguồn   Thích Tín Nghĩa
1Vu Lan nhớ về :  Thần Lực Chúng An Cư Thích Tín Nghĩa
1Tình Pháp Lữ :  TÍN NGHĨA - TRÍ HIỀN :Thích Tín Nghĩa
1Lần Đầu Tiên Đến Xứ Úc: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
1 Bóng Thời Gian: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
1 Hòa Thượng Xe Bus: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
1 Một Chữ: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Hai Câu Chuyện Rất “Thương Tâm”
Phật Đản Miền Đông Bắc Hoa Kỳ
Một Đạo Tràng Bố Tát Đặc Biệt
Đi Quanh Một Vòng Với Các Đạo Tràng An Cư – 2021
Mùa Xuân Tân Sửu – 2021
Thông Báo Mới Của CDC Chỉ Có 6% Số Người Tử Vong COVID -19 . . . .
Vu Lan 2564-2020 Nhớ Ơn Nhị Vị Hòa Thượng “Đức Niệm và Mãn Giác”
Luận về : Cái Chết Nguyên Con
Có Những Cái Chết
Thông Điệp Của Sự Hạnh Phúc
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
3150168
Có -656 Khách Đang Online